Tượng gỗ Phật Di Lặc câu cóc (Lưu hải câu cóc) Gỗ hương - Cao 88cm x sâu 48cm
Theo truyền thuyết dân gian, tài thần có văn tài thần và võ tài thần, nhưng liên quan đến con cóc (thiềm thừ) thì phải nhắc đến truyền thuyết " Lưu Hải câu cóc" hay còn gọi "lưu hải hý thiềm"
Theo truyền thuyết đạo Giáo, Lưu Hải là một nhân vật thời Ngũ Đại, là người nghĩ ra việc đúc tiền cho dân chúng tiêu dùng. Trong dân gian có bức tranh "Lưu Hải hý Kim Thiềm" mô tả hình tượng Lưu Hải hai tay cầm một xâu tiền, dưới chân có cóc ba chân gọi là Kim Thiềm. Con Cóc này là cóc thần. Nhưng cóc thần có tật ẩn dưới đáy giếng sâu, mỗi lần Lưu Hải muốn gọi cóc thì phải dùng một xâu tiền vàng thì cóc thần mới chịu ra khỏi giếng.
Lại có tích kể rằng nhiều đời sau tại Tô Châu, có một thiếu niên tên là A Bảo, tới gõ cửa nhà đại phú thương gia Bối Hoành Văn, xin làm gia nhân, được thu nhận. A Bảo trở thành người làm thân tín trong nhà. Khi Bối Hoành Văn tính tiền công cho A Bảo thì A Bảo lễ phép khước từ và có chuyện lạ là A Bảo có thể nhịn không ăn mấy ngày liền. Một buổi tối nọ A Bảo kéo nước thì kéo được một con cóc ba chân từ đáy giếng lên. A Bảo mừng như điên dại, và chơi với con cóc bằng một dây ngũ sắc. Cậu thiếu niên nói với Bối Hoành Văn là hắn đã tìm được con Kim Thiềm lạc mất cả năm qua (Có lẽ Kim Thiềm lạc vào nhà ai thì nhà đó sẽ trở thành đại phú, nhưng không thấy nhắc đến sau khi kim thiềm bị mang đi nhà đó có nghèo đi không). Lúc đó cả làng tới xem Kim Thiềm, đứng giữa người làng A Bảo vác kim thiềm bay lên mây biệt tích, vì vậy mà người làng cho rằng A Bảo là hậu thân của thần tài Lưu Hải, cải trang đi tìm Kim Thiềm mang về trời. Chữ cóc vàng ở Việt Nam cũng bắt nguồn từ tích này.
Nụ cười của đức Di-lặc là nụ cười hoan hỷ bất diệt, tâm hồn của đức Di-lặc là tâm hồn bao dung không bờ bến. Và, không ai nhìn vào hình tượng của Ngài mà không cảm thấy lòng mình trở nên thanh thản nhẹ nhàng.
Thật ra không phải ngẫu nhiên mà tượng Phật Di-lặc được tạc theo hình thức như vậy, mà đây chính là thể hiện mong ước và tâm tư của đạo Phật trong việc đem nụ cười vào trong cuộc đời.
Cười chẳng có gì là khó, vì nó chẳng hao công sức cũng chẳng tốn bạc tiền. Nhưng, để có được nụ cười với những hiệu quả của nó đôi lúc lại là một việc không dễ dàng chút nào. Vì thực tế cho thấy, có người suốt ngày chẳng tìm ra được nụ cười dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo. Lý do thật dễ hiều. Bởi lẽ, đôi lúc hoàn cảnh khiến cho tâm hồn con người ta trở nên khô cứng và vì vậy phải sống trong ầm thậm lặng lẽ để rồi dần đánh mất đi nụ cười. Bảo rằng, cười sao được khi cuộc sống có quá nhiều lo âu phiền muộn, cười sao được khi biết bao đau khổ đang đè nặng trong tâm hồn. Nói một cách khác, con người ta chỉ cười khi trong lòng không có phiền muộn lo âu, ít có ai cười trong hoàn cảnh trái ý nghịch lòng. Và chính vì thế mà khiến cho cuộc đời càng trở nên mệt mỏi, căng thẳng và thật sự có những nụ cười mà trong đó là lệ chảy.
Cuộc đời vốn đã quá nhiều đau khổ và vì thế rất cần đến những nụ cười. Bởi vì nụ cười là cửa ngỏ của con tim, nó mở lối cho tình người xích lại gần nhau; nụ cười làm ấm lại một tâm hồn đang bơ vơ lạc lõng, nụ cười làm cho mọi người thông cảm lẫn nhau. Lại nữa, cười có thể làm giảm bớt sự căng thẳng của cuộc sống, cười có thể làm vơi đi nỗi bực dọc, đau khổ trong tâm hồn.
Cuộc sống là sự tương quan giữa người với người là sự tương quan giữa người và thiên nhiên vật loại. Và, thái độ sống của người nầy ít nhiều đều có ảnh hưởng đến niềm vui và nỗi buồn của người khác và cho cả thế giới thực vật nữa. Ai có thể vui được khi bên cạnh họ có một người đang âu sầu, buồn bã; ai có thể vui được khi bên cạnh họ có người đang gắt gỏng, giận hờn. Cảnh làm sao vui, khi cảnh ấy có người buồn. Ngược lại, cuộc sống sẽ trở nên vui vẻ hơn, bớt căng thẳng hơn khi mọi người biết cười và biết tặng nhau nụ cười hoan hỷ.
Nụ cười là nắng ấm mùa xuân, là đóa hoa tô điểm cho cuộc đời, làm cho cuộc đời trở nên đẹp hơn và thi vị hơn. Vậy thì tại sao lại không cười? Đành rằng những nghịch cảnh trong cuộc sống đôi khi khiến cho con người ta muốn cười cũng không thể nào cười được. Nhưng nếu có thể cười được thì hãy cứ cười.
Nhưng làm thế nào để luôn có được nụ cười? Đó chính là khi ta biết buông bỏ tất cả những ưu tư, hờn giận trong tâm hồn; khi ta biết cười tán dương cho hạnh phúc của người khác, và khi ta biết cười được những việc khó cười trong thế gian. Đức Di-lặc là người có nụ cười như vậy. Ngài là biểu hiện cho tâm hồn hoan hỷ, bao dung của con người.
Đời người chẳng có bao nhiêu, vì vậy hãy sống cho có ý nghĩa. Để sống có ý nghĩa trước hết là phải biết cười và biết cho người cụ cười. Bởi lẽ nụ cười là chất liệu của yêu thương, là mùa xuân bất diệt của nhân loại vậy.
Vì vậy chúng ta có thể dùng Tượng Phật Di Lặc trong trang trí nội thất. Tượng Phật Di Lặc mang lại nụ cười và may mắn cho những gia chủ dùng để thờ hoặc trưng bày tại phòng khách.